Bắt nguồn từ những cánh rừng đông Trường Sơn ngút xa chảy sang hướng Tây- Tây Nam rồi hợp lưu với dòng Pô Kô và đổ về sông Sê San hùng vĩ, sông Đăk Bla hiền hòa làm nên nét địa hình riêng có của mảnh đất cực Bắc Tây nguyên . Gắn liền với sự hình thành của dòng sông chảy ngược gần như duy nhất ở Việt Nam, từ xa xưa, thuyền độc mộc đã gắn bó với sinh hoạt hàng ngày của các cư dân người Ba Na bản địa. Đi qua năm tháng, thuyền độc mộc hôm nay vẫn còn là nét đẹp trong đời sống đồng bào.
Thuyền độc mộc trên sông Đăk Bla, Tp.Kon Tum |
Ở làng nhỏ Kon Ngo, xã Vinh Quang, thành phố Kon Tum, bao đời nay, bãi bồi rộng lớn mỡ màu ven sông Đăk Bla là nguồn sống của những người dân Ba Na hiền lành, chất phác. Sau một ngày vất vả trên cánh đồng bắp, đồng mì bên bờ Nam Đăk Bla, vợ chồng Y Bái lại chèo thuyền qua sông để trở về nơi có cái bếp củi đang chờ đỏ lửa và mấy đứa con thơ đang đợi những bắp ngô thơm.
Thuyền độc mộc, hay còn gọi là cái “sõng”, tiếng Ba Na là “Plung”. Plung ra đời từ khi nào, ai là người khai sinh ra nó? Không ai biết rõ. Theo sự hình thành và phát triển của những thôn làng người Ba Na từ phía thượng nguồn đến cuối dòng Đăk BLa trên đất Kon Tum, hẳn là Plung đã được làm nên từ chính đôi bàn tay cần cù, khéo léo của tổ tiên người Ba Na bản địa để phục vụ cho chính đời sống, sinh hoạt hàng ngày của mình. Tuy không ngày ngày phải qua sông như nhiều bà con ở các làng Kon Ngo, Kon Rờ Bàng, Kon Jơ Ri, Kon Ktu song với ông A Jar- một người sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian của người Ba Na, hội viên hội Văn học nghệ thuật tỉnh Kon Tum, hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, plung luôn là hình ảnh thật thân thương, gần gũi. Ông A Jar chia sẻ: Từ xa xưa, làng của người Ba Na luôn được làm cao hơn ruộng rẫy. Ở phía bên kia sông Đăk Bla đất rất tốt nhưng mà lại bị ngăn cách bởi con nước nên plung là phương tiện rất là cần thiết để chở người và nông sản. Không những thế, bà con còn dùng cái plung dùng trong sinh hoạt hàng ngày như đánh cá, chài lưới. Plung còn được thanh niên ngày xưa dùng để đua, để thử sức với nhau xem ai khỏe, ai giỏi chèo thuyền .
Thuyền độc mộc được làm nên từ những thân cây gỗ lớn còn nguyên vẹn và đặc biệt phải là những cây gỗ có khả năng chịu nước, phổ biến là loại Sao Cát, nhưng tốt hơn cả là cây Rơ Man thân gỗ trắng, mối không ăn mà mọt cũng không phá được. Thợ làm thuyền đều là những người thợ mộc có tay nghề cao, thuần thục trong việc làm nhà rông, nhà sàn, hay như chế tác tượng gỗ và các đồ vật từ gỗ. Để làm được con thuyền có độ dài phổ biến 5-6 m, chiều rộng lòng thuyền khoảng 0,5-0,6 mét, ngày trước, những người thợ thuyền phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng từ khâu chọn cây, lấy gỗ đến đục đẽo, tạo dáng tạo hình mất cả tháng trời. Cũng bởi nguyên liệu để làm plung cần là những thân gỗ lớn, còn nguyên vẹn nên việc chế tạo thuyền độc mộc trước đây chủ yếu bằng phương pháp thủ công. Cùng một kích cỡ, kiểu dáng, nhưng thuyền có đẹp, có bền hay không còn tùy thuộc vào sự kỳ công và “hoa tay” của mỗi thợ làm thuyền. Thuyền nhỏ,dễ lướt nên cũng rất dễ điều khiển. Trẻ, già, trai, gái…Ai có sức một chút đều có thể chèo được.
Kể từ khi Kon Tum có cầu treo Kon Klor bắc qua sông Đăk Bla, thuyền độc mộc đã không còn hiện diện ở một trong những bến sông lớn trước đây được coi là sầm uất nhất nối làng Kon Klor, phường Thắng Lợi với vùng sản xuất thuộc xã Đăk Rơ Va. Tuy vậy, tại các làng đồng bào nằm rải rác ven sông Đăk Bla từ các xã của huyện Kon Rẫy, qua thành phố Kon Tum đến huyện Sa Thầy thì hiện vẫn còn hàng trăm thuyền độc mộc được bà con sử dụng qua sông hàng ngày. Từ năm 1999, lần đầu tiên Hội đua thuyền trên sông Đăk Bla được quan tâm tổ chức và trở thành giải thể thao truyền thống của tỉnh thì mọi người càng có dịp chứng kiến nét đẹp văn hóa, nét đẹp sinh hoạt - đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số tỏa sáng.
Đua thuyền “ Mừng Đảng, mừng xuân” |
Năm tháng đi qua. Sóng nước khiến những con thuyền không còn vẹn nguyên như thuở nào. Rừng càng lùi xa, gỗ thành khan hiếm. Những người thợ thuyền cũng theo nhau ra đi …Ở Kon Tum bây giờ, dường như chẳng tìm đâu ra người đẽo plung như ngày nào. Muốn có được chiếc plung mới, người ta phải đặt hàng rất xa, từ vùng thượng nguồn và với một khoản chi phí không hề nhỏ cần được dành dụm khá lâu. Cần mẫn vá lại những chỗ plung đã cũ hay là phải dùng thêm thuyền bằng tôn bằng thiếc thay thế, biết làm sao khác được khi nhu cầu qua lại trên sông hàng ngày vẫn như cơm ăn ước uống? Có một điều, cho dù những chiếc plung gần gũi, thân thương có dần dần vắng thưa trên những bến sông thì vẻ đẹp giản dị, thuần phác mà những người dân Ba Na cần cù đã làm nên ở vùng ven sông nước thì sẽ mãi được lưu giữ, trở thành nét đẹp của cuộc sống./.
Nguồn: Báo Kon Tum